Feeds:
Posts
Comments

Archive for March, 2009

“Văn hóa đọc”, đó là một khái niệm có vẻ nhhư tời thượng, khi người ta muốn nói đến việc công chúng đọc cái gì, đọc ra sao, đọc như thế nào, xu hướng đọc…

Để có được những “bồ chữ” cỡ như Lê Văn Siêu, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến… nếu không đọc và học, làm sao có? Một vị giáo sư nổi tiếng trên bất kỳ lĩnh vực nào, nếu muốn tiếp xúc được với nhiều tầng lớp công chúng, vị đó phải có tầm văn hóa.

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, thực ra chỉ là một vị bác sĩ, nhưng ông nổi tiếng như là một nhà hoạt động văn hóa. Giáo sư Hoàng Tụy, một nhà toán học nổi tiếng thế giới, nhưng ông cũng là một nhà giáo dục có tầm chiến lược… Những dẫn chứng như vậy còn rất nhiều. Để có được tầm văn hóa ấy, vấn đề đơn giản nhưng không phải ai cũng có thể làm được: Đọc và học.

Văn hóa đọc?

Trong cuộc hội thảo “Đọc: Thói quen hay văn hóa?” được tổ chức vào ngày 13-5-2008, ông Antonio Berebguer, Bí thư thứ nhất phái đoàn châu Âu tại VN, có phát biểu đáng suy nghĩ: “Giữa căn phòng trong ngôi nhà tôi ở Tây Ban Nha là một kệ sách lớn. Còn trong hầu hết những ngôi nhà ở VN, trung tâm căn phòng là chiếc tivi màn ảnh phẳng to đùng!”.

Hình như ông Berebguer nói đúng thực tại của chúng ta. Hẳn bạn cũng thấy hình ảnh những du khách nước ngoài trên các chuyến tàu xuyên Việt, hoặc tại nhà chờ ở các sân bay, nếu không ngủ, trên tay họ luôn luôn có cuốn sách và họ đọc không ngơi nghỉ. Còn những hành khách VN? Họ ngủ, hoặc trò chuyện, hoặc ngồi đăm chiêu suy tư, ngó ngu ngơ ra cửa sổ con tàu. Trong những quán ăn ở TPHCM, Hà Nội, chắc chắn bạn thường bắt gặp hình ảnh những du khách nước ngoài ôm sách vừa đọc vừa ăn…

Hình ảnh những ông, bà Tây ôm sách đọc cũng dễ dàng nhận thấy ở trên những ga metro, trên những chuyến tàu tốc hành ở châu Âu và cả ở Nhật Bản. Nếu so sánh những hình ảnh ấy với thói quen của người Việt chúng ta, hình như chúng ta chưa có văn hóa đọc!?

Nhu cầu của mỗi cá nhân.- Mỗi cá nhân có những nhu cầu riêng, phù hợp với công việc, sở thích, cá tính.

Cho nên, cũng không thể nói người Việt không có văn hóa đọc. Nhiều người có nhu cầu đọc như thở và ăn uống mỗi ngày. Nhưng cũng có nhiều người không có nhu cầu đọc, trong nhà họ bạn không thể tìm thấy một cuốn sách hoặc tờ báo nào. Đó là thực tế.

Trong cuộc sống của con người, ngoài nhu cầu thỏa mãn về vật chất, còn có nhu cầu thỏa mãn về tinh thần. Nhu cầu thỏa mãn về vật chất luôn luôn có hạn, còn nhu cầu thỏa mãn về tinh thần gần như vô tận, bởi kiến thức, văn minh, văn hóa của nhân loại là vô tận.

Điều gì ẩn chứa trong từng cuốn sách mà hấp dẫn bạn đọc trẻ này đến vậy? Ảnh: P. Quyên

Chúng tôi đã từng biết những người già khi về hưu suốt ngày ôm sách, hỏi họ vì sao lại mê sách khi về già, câu trả lời đơn giản: Khi còn đi làm, không có thời gian đọc, chỉ đọc những vấn đề về chuyên môn, còn bây giờ đọc những sách triết học, văn học… thấy hiểu biết của mình còn khiêm tốn quá, và cảm thấy cái gì cũng muốn đọc… Câu hỏi rất dễ thương khi bạn còn nhỏ đã biết, nay hình như được lặp lại trong tâm thức bạn: “Điều gì ẩn chứa trong từng cuốn sách mà hấp dẫn ta đến vậy?”…

Đó là thực tế của cuộc sống. Nhưng đọc cũng phải biết cách đọc. Ông trùm máy tính Bill Gates có nói: “Đọc sách cũng là một kỹ năng”. Đã là “kỹ năng” thì phải biết rèn luyện để tạo nên kỹ năng đó. Muốn có kỹ năng, trước hết phải tập thói quen đọc. Có thói quen rồi, mới rèn luyện kỹ năng, tiếp đến mới tìm phương pháp đọc. Tùy theo mục đích đọc, người đọc có những phương pháp đọc khác nhau.

Nguyễn Hiến Lê, một học giả nổi tiếng để lại cho cuộc đời nhiều tác phẩm hữu ích, thực ra ông không học nhiều ở trường lớp, mà chủ yếu là tự học. Gương tự học của Nguyễn Hiến Lê rất đáng nể, ông có thói quen đọc một vấn đề nào đó đều đọc rất kỹ, ghi chép tỉ mỉ, cẩn trọng, điều gì chưa hiểu, ông ghi ra để tìm cách hiểu cho được. Và một phương pháp khó có thể học được ở Nguyễn Hiến Lê là đọc lĩnh vực nào đó, để tự học tốt nhất, ông viết sách về vấn đề đó! Đó là cách đọc của một học giả đáng kính.

Chúng ta đang đọc gì?

Những người băn khoăn cho rằng văn hóa đọc của ta đang xuống cấp. Họ có cái lý của họ, khi khảo sát số liệu thống kê sau của Cục Xuất bản: Một người VN đọc được 2,9 và 7,07 tờ báo/năm. Các loại sách được đọc nhiều nhất gồm: truyện tranh 60%, truyện ngắn 50%, truyện dịch 35%, tiểu thuyết 30%… Thống kê đó cho thấy, truyện tranh được nhiều người đọc nhất và tất nhiên phần lớn độc giả là trẻ em.

Các nhà nghiên cứu cần quan tâm đến số liệu này để xây dựng nền tảng văn hóa đọc cho các em ngay từ nhỏ, nhưng rất tiếc, thị trường truyện tranh hàng ngoại đang lấn át hàng nội. Đó cũng là vấn đề đang được đặt ra cho công tác xuất bản.

Văn hóa đọc không bao giờ chết, bởi con người luôn khát khao văn hóa, kiến thức. Nhìn vào doanh thu từ bán sách ở nước ta mỗi năm hơn 1.000 tỉ đồng, cho thấy sức đọc của người Việt là có. Ngay ở Hội sách TPHCM lần 5 vừa qua, có đến hơn nửa triệu người tham gia, với doanh thu hơn 15 tỉ đồng, cho thấy văn hóa đọc có sức sống riêng của nó.

Thời đại đa truyền thông như hiện nay, có người lo ngại internet chi phối văn hóa đọc, nhưng theo chúng tôi đó là sự chi phối tích cực. Đọc trên mạng hay đọc sách đều như nhau. Sách trên mạng ngày càng phong phú, đa dạng nhưng bạn đọc cũng dễ lạc lối. Điều đó là đương nhiên, vì trên mạng không gian như vô tận, khó kiểm soát chất lượng.

Vấn đề còn lại của chúng ta là làm sao xây dựng cho được một văn hóa đọc lành mạnh. Vấn đề này có thể từ nhà trường, gia đình và cả xã hội. Việc lựa chọn những tác phẩm hay, xuất sắc của nhân loại để xuất bản là vấn đề then chốt, để định hướng văn hóa đọc cho công chúng. Và trên hết, mỗi cá nhân phải hiểu rằng nhu cầu đọc – một nhu cầu tinh thần, sẽ góp phần xây dựng nên tính cách, nhân phẩm và cả tương lai của chính bạn.

LÊ NGA HUYỀN

Read Full Post »

Tác giả – tác phẩm – công chúng, đó là cái tam vị tạo nên sự nhất thể cho đời sống của nghệ thuật. Ba yếu tố này ràng buộc lẫn nhau, chế định lẫn nhau, đặt điều kiện cho nhau trong suốt chiều dài lịch sử của bất cứ một nền nghệ thuật nào. Nói cách khác, chúng ngang bằng nhau về vai trò thực tiễn trong sự tạo lập đời sống nghệ thuật.

Tuy nhiên, ở nền văn học nghệ thuật của chúng ta hiện nay, hình như lại đang diễn ra sự khuếch đại một cách quá mức vai trò của yếu tố công chúng. Trong văn chương, khi tỏ ra ngờ vực giá trị thực sự của các giải thưởng “quốc nội” lớn nhỏ, không ít nhà văn đã đề nghị gạt các tác phẩm được giải sang một bên để chọn các tác phẩm có lượng phát hành cao. Như vậy, chuẩn cứ để xác định giá trị của tác phẩm văn chương không phải là giải thưởng, mà là số lượng ấn bản và số lần tái bản – những thông số này cho phép chúng ta hình dung về độ ấm lạnh trong tiếp nhận của công chúng đối với tác phẩm. Trong điện ảnh, đang dấy lên làn sóng thực hiện những bộ phim ăn khách. Với tuyên ngôn “Phim là để giành cho khán giả”, người ta dường như tìm thấy giá trị của tác phẩm điện ảnh từ lượng vé bán ra, từ tổng doanh thu, từ lãi sau khi đã trừ tất cả các khoản chi phí – tóm lại là từ con số khán giả đến rạp xem phim. Trong âm nhạc, tình hình cũng tương tự. Thông qua các cuộc bình chọn ý kiến khán thính giả (đang nhiều lên như nấm mọc sau mưa), người ta sẽ biết những ca khúc nào thuộc vào hàng Top – hit, những tác giả nào là nhạc sĩ ăn khách, những giọng ca nào đang là ca sĩ thời thượng, là “sao”. Đó là những giá trị, và ngoài những giá trị ấy tất cả những gì còn lại của âm nhạc dường như đang bị coi là thứ yếu…
Chỉ lấy ví dụ từ ba ngành nghệ thuật là văn chương, điện ảnh và âm nhạc, có lẽ cũng đủ thấy rằng hiện đang phổ biến một xu hướng coi công chúng như đại lượng duy nhất để đo lường giá trị của tác giả, tác phẩm nghệ thuật. Cần phải nhìn nhận hiện tượng này ra sao? Nên mừng hay nên lo đây?
Trước hết hãy xét vấn đề từ yếu tố tác giả. Vì những lí do gì mà người nghệ sĩ bắt tay vào công việc viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh, nặn tượng, làm phim v.v…? Nếu loại trừ nhu cầu kiếm sống hoặc sự khát khao tìm kiếm tên tuổi, thì chỉ còn lại hai lí do cơ bản. Thứ nhất, đó là nhu cầu được giải phóng những trăn trở, những vật lộn tìm tòi của người nghệ sĩ trước các vấn đề của đời sống và của bản thân nghệ thuật. Và sau đó, thứ hai, là nhu cầu được cộng thông chia sẻ, được khuếch tán và phổ biến những trăn trở, những vật lộn tìm tòi ấy trong cộng đồng – tức là nhu cầu có công chúng nghệ thuật. Hai lí do này có sức mạnh tất yếu ngang nhau trong quá trình sáng tạo. Nếu không xuất phát từ lí do thứ nhất thì dù có là nghệ sĩ thiên tài cũng không thể đẻ ra được tác phẩm nghệ thuật, có chăng chỉ là một loại “á nghệ thuật” mà thôi. Còn nếu không có lí do thứ hai, nếu người nghệ sĩ tin chắc rằng mình sẽ không có lấy nổi một công chúng – bây giờ cũng như mai sau – hoặc anh ta vốn không cần ngó ngàng tới công chúng, thì đơn giản là anh ta sẽ chẳng sáng tạo làm gì! Đã rõ, không nghệ thuật nào là nghệ thuật không cần tới công chúng. Nhưng công chúng nào, và cần phải ứng xử với công chúng theo cách nào, thiết nghĩ, đó mới thực là điều quan trọng.
Chúng ta thường có thói quen nhận xét về công chúng theo kiểu “túm một mớ”, rằng công chúng thế này rằng công chúng thế kia. Nhưng thực tế là, trong công chúng, anh A khác anh B có khi một trời một vực. Nói cách khác, có những sự phân hóa trong công chúng của nghệ thuật, có thể đó là sự phân hóa về tuổi tác, giới tính, ngành nghề, quan điểm xã hội, quan điểm thẩm mĩ v.v và v.v… Tôi muốn nhấn mạnh đến sự phân hóa về trình độ nhận thức thẩm mĩ. Và theo lằn ranh giới (không phải bao giờ cũng dứt khoát) này, có thể tạm nói đến hai loại công chúng nghệ thuật: công chúng tinh hoa và công chúng phổ thông. Công chúng tinh hoa là những người am hiểu nghệ thuật, họ được (hoặc tự) trang bị đầy đủ kiến thức để có thể tiếp cận tác phẩm nghệ thuật, nắm được nội dung, ý nghĩa, giá trị thẩm mĩ của nó một cách khá chính xác. Họ có khả năng phát hiện cái mới ở nó và cũng có khả năng phê phán nó, họ nhìn thấy quá trình sáng tạo âm thầm của tác giả và có thể đặt yêu cầu với anh ta ở quá trình tiếp theo… Còn công chúng phổ thông, đó là những người yêu nghệ thuật một cách bất tự giác, họ đến với nghệ thuật hầu như theo nhu cầu giải trí thuần túy. Họ có thể cũng có sự phẩm bình đánh giá tác phẩm, tác giả, song cơ bản thì đó là sự phẩm bình đánh giá thiên về cảm tính và theo “lẽ phải thông thường” (chữ của Engels). Sau khi đã phân loại để nhận diện hai kiểu công chúng này, phải nói ngay một đặc điểm rất quan trọng: quan hệ giữa công chúng tinh hoa và công chúng phổ thông là quan hệ giữa thiểu số và đa số, hơn nữa, nhận định của hai loại công chúng về nghệ thuật rất thường khi không trùng khít với nhau, nếu không muốn nói là hay trái ngược nhau! Đến đây, đã có thể tạm có câu trả lời cho xu hướng coi công chúng như đại lượng chuẩn để đo lường giá trị của tác giả, tác phẩm nghệ thuật: được số đông công chúng thừa nhận chưa hẳn đã là đủ điều kiện để tấn phong giá trị, nếu như số đông ấy chỉ gói gọn ở công chúng phổ thông. Thế mà, oái oăm thay, sự thực nhãn tiền ở nền văn học nghệ thuật của chúng ta hiện nay là như vậy: những bộ phim ăn khách, thu lãi suất cực cao là những bộ phim mà giới làm nghề và giới phê bình điện ảnh phải ngán ngẩm lắc đầu. (Nhưng không vì thế mà tất cả những bộ phim thua lỗ lại đều là những tác phẩm điện ảnh ở trình độ nghệ thuật cao. Nhiều đạo diễn Việt Nam thường đổ lỗi cho công chúng không đủ tầm để xem phim do mình mình làm ra – về lí thuyết thì có thể nói như vậy, nhưng với thực tế của phim Việt Nam thì tôi… không tin). Những ngôi sao ca nhạc, những Top – hit ca khúc do khán giả bình chọn chẳng mấy khi liên quan đến sự thẩm định của các hội đồng nghệ thuật gồm toàn những nhạc sĩ thành danh và đầy uy tín. Trong kiến trúc, người dân chỉ thích những kiểu công trình mà giới kiến trúc sư cực lực phản đối. Văn chương có khá hơn, song không phải cuốn sách nào có lượng phát hành cao cũng là cuốn sách được giới phê bình mặn mà… Tóm lại, khi chưa có sự phê chuẩn của công chúng tinh hoa, thì những giá trị có được từ sự thừa nhận của số đông công chúng là những giá trị hết sức bấp bênh và đáng ngờ. Và hiển nhiên, việc lấy số đông công chúng làm chuẩn cứ để định giá nghệ thuật là điều đáng lo hơn đáng mừng, bởi lẽ, nó tiềm tàng khả năng tạo ra sự “lộn sòng” giữa chân giá trị và ngụy giá trị trong nghệ thuật!
Thực ra, sự khuếch đại một cách quá mức vai trò của công chúng là một vấn đề có tính lịch sử trong đời sống nghệ thuật ở ta. Không nghệ thuật nào là nghệ thuật không cần tới công chúng – đây là nguyên tắc. Nhưng, trong tiến trình dân chủ hóa nghệ thuật, và đặc biệt, trong bối cảnh mà sản phẩm nghệ thuật cũng cần thiết phải trở thành hàng hóa, thì khái niệm “công chúng” trở nên khá chung chung. Có lẽ phải hiểu “công chúng” ở đây nghĩa là “đại chúng” – một đối tượng tiếp nhận nghệ thuật gần như trùng khít với cái gọi là công chúng phổ thông. “Nghệ thuật phục vụ đại chúng” – có một khẩu hiệu như vậy, và chính là với sự định hướng mang tính quyết định luận như vậy mà nền nghệ thuật Việt Nam đã vận động theo cách riêng của nó kể từ sau năm 1945 tới nay. Tôi muốn bàn kĩ hơn về từ “phục vụ”. Một cách đơn giản, có thể hiểu “phục vụ” là làm thoả mãn nhu cầu của đối tượng. Phục vụ nghệ thuật là làm thoả mãn thị hiếu thẩm mĩ của công chúng, ở đây ta đang nói về công chúng phổ thông. Vậy thì, để có thể phục vụ được công chúng phổ thông, người nghệ sĩ cần phải hiểu rõ công chúng muốn gì, cần gì, thích gì, và từ đó làm ra loại tác phẩm nghệ thuật phù hợp với cái muốn, cái cần, cái thích ấy. Có những nghệ sĩ không chút băn khoăn về chuyện này. Nhưng lại có không ít người cảm thấy bức bối: họ muốn có công chúng của mình, càng nhiều càng tốt (tất nhiên!), nhưng những tìm tòi trong lao động nghệ thuật của họ thì lại vượt quá kích cỡ thẩm mĩ của công chúng. Chỉ có hai giải pháp cho vấn đề này: thứ nhất, người nghệ sĩ phải “thu bé” mình lại, và thứ hai, anh ta cứ việc chường mình ra để rồi trở thành lạc lõng, thậm chí bị ghẻ lạnh – trường hợp của Nguyễn Đình Thi với sự thể nghiệm thơ không vần trong những năm đầu thời chống Pháp là một ví dụ khá điển hình, và đó cũng là trường hợp của Nguyễn Quang Thiều với lối thơ “như dịch mộc từ thơ Tây” vào đầu những năm 1990. (Nhà mĩ học tiếp nhận người Đức, Hans Robert Jauss, đã cho một lời đáp về hiện tượng này bằng khái niệm “tầm đón đợi” – khái niệm chỉ trình độ nhận thức của công chúng ở một thời điểm cụ thể: những tác phẩm nào vượt quá tầm đón đợi của công chúng khi mà nó xuất hiện thì thường phải chịu số phận như vậy). Nhìn nhận vấn đề một cách thật khách quan, có thể mạnh dạn nói rằng: mục đích sáng tạo nghệ thuật để “phục vụ đại chúng” – và chỉ thế thôi – chính là một trong những yếu tố ngăn trở năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ, ngăn trở khả năng nảy sinh cái mới trong nghệ thuật và là sức ỳ đối với tiến trình vận động của nghệ thuật.
Câu hỏi đặt ra là: vậy thì rốt cuộc người nghệ sĩ phải ứng xử với công chúng như thế nào? Tất nhiên phải hướng về công chúng, nhưng không phải là để “phục vụ” công chúng theo những quy tắc vàng của kinh tế thị trường mà chúng ta ai nấy đều thuộc lòng: “khách hàng là Thượng đế”, và, “bán cái khách hàng cần chứ không bán cái mà mình có”. Làm như vậy, người nghệ sĩ có thể trở thành một tác giả best seller trong văn chương, một nhạc sĩ thời thượng, một hoạ sĩ bán được nhiều tranh, một kiến trúc sư có nhiều đơn đặt hàng, một đạo diễn điện ảnh được nhiều hãng phim săn đón… nhưng trong tiến trình lịch sử của nghệ thuật, ít hy vọng anh ta sẽ để lại một dấu ấn tích cực nào. Bởi lẽ, đó là cách kéo tụt nghệ thuật xuống, thu hẹp nghệ thuật lại cho phù hợp với tầm vóc của số đông công chúng. (Vẫn có những tác phẩm thoả mãn được cả hai kiểu công chúng, do vậy nó vừa có giá trị thực, lại vừa ăn khách. Nhưng đó là số ít, rất ít). Thiên chức của người sáng tạo, có lẽ, trước hết là trung thành với những suy nghĩ trăn trở, những vật lộn tìm tòi của mình, và sau đó là dám chấp nhận trả giá vì nó. Nhà văn Pháp Alain Robbe Grillet – chủ soái của “Tiểu thuyết mới” – từng phát biểu: “Nhà văn sẽ là kẻ suy đồi khi mà trong lúc sáng tác anh ta còn nghĩ đến công chúng”. Dĩ nhiên không phải ông không cần đến công chúng – xin nhắc lại: không có nghệ thuật nào lại không cần tới công chúng – mà là ông đặt trọng tâm ở khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao nghệ thuật của người sáng tạo. Chỉ bằng cách liên tục chiếm lĩnh những đỉnh cao mới, nghệ thuật mới “phục vụ” công chúng có hiệu quả nhất. Hay nói cách khác, nghệ thuật phải làm được chức năng đào tạo công chúng: thay vì cách thoả mãn giản đơn cái thị hiếu thẩm mĩ hiện có của công chúng, người sáng tạo nghệ thuật phải bằng tác phẩm của mình mà “nâng cấp” thị hiếu ấy, đưa nó vượt ra khỏi giới hạn của thói quen tiếp nhận đã ổn định. Đây cũng là quan điểm của mĩ học tiếp nhận: việc liên tục điều chỉnh tầm đón đợi của công chúng chính là yếu tố tác động trực tiếp tới sự phát triển của nghệ thuật, và là bản thân sự phát triển ấy.
Nếu có phải nói thêm gì đó trong bài viết này, tôi muốn được bày tỏ sự… thất vọng của mình: chúng ta chưa có một tầng lớp công chúng tinh hoa thực sự! Công chúng tinh hoa ở lĩnh vực nghệ thuật này rất hay là công chúng phổ thông trong những lĩnh vực nghệ thuật khác: nhà văn thích chơi tranh sú- vơ- nia Bờ Hồ, nhạc sĩ xem phim video TVB, hoạ sĩ đọc truyện tình… hai xu rưỡi v.v… là chuyện chẳng hiếm. Do vậy, tôi cứ nhìn những nhân vật lịch lãm “cùng mình” trong thưởng ngoạn nghệ thuật như Milan Kundera hay Octavio Paz mà thấy phục sát đất. Cầm lòng vậy, đành lòng vậy…

 

HOÀI NAM

 

Read Full Post »

Nguyễn Ngọc Tư

Nhiều khi ớn chữ, tôi mua mấy tạp chí phụ nữ, thời trang về để… coi hình. Hững hờ để từng trang trôi qua tay mình, khuây khỏa được chút kia thì thương vương nỗi nọ. Mình không thể có trang sức này, quần áo này, bộ mỹ phẩm này hay cái túi xách, đôi giày này. Hoặc chúng quá hào nhoáng chỉ để trình diễn hoặc quá sang trọng, quý phái hoặc chúng quá đắt tiền. Giống như một mối tình không mơ mộng và hy vọng. Tôi nhớ tới má cùng chị, nghĩ, nếu cố gắng, mình cũng mua được một vài thứ bày biện trong tạp chí này để tặng hai người phụ nữ mình thương.

Và má tôi sẽ xòe bàn tay chai sần quắt queo của mình, để quy đổi giá tiền cái túi xách ra… lúa, ra mấy giồng cải, bàng hoàng biết nó giá trị hơn cả một vụ mùa. Chị tôi chắc cũng bẽ bàng, chẳng có đôi giày nào hợp với đôi chân héo thường xuyên dầm trong nước, chẳng có bộ trang phục nào chị mặc để bưng bê trong cái quán giải khát nhỏ xập xệ bên đường. Chưa kể nội dung, chỉ giá bìa thôi, tạp chí đã là một thứ xa xỉ, với đám đông kiếm sống vất vả, tảo tần như má, chị tôi.

Nhưng những tạp chí đó vẫn được người ta yêu thích. Những món hàng tinh tế, sang trọng, đắt đỏ và xa hoa vẫn được người ta mua. Cuộc sắm sửa của họ bình thản và nhàn tản như trẻ con mua viên kẹo, như tôi mua tờ báo, không một chút thắt lòng nào. Họ ít, nhưng là số-ít-gì-cũng-có.

Vài lần trong đời, tôi cũng đứng về phía số ít đó, nên sau này không còn cực đoan quay quắt khi nhìn những cái sân tennis của huyện lỵ nghèo. Tập thở đều khi qua những cao ốc sang trọng những resort thơ mộng, giữ nhịp tim không đổi khi đứng trước miên man cỏ mượt sân golf. Tự nhủ, mình chẳng có lỗi gì.

Tôi thật chẳng lỗi gì với bầy trẻ xóm chài kia, dù chúng không được vào cái bãi cát tuyệt đẹp mà tôi đứng ngắm biển chiều. Chỗ này ngày xưa, trước khi trở thành nơi nghỉ dưỡng cao cấp, đám trẻ đó đã từng chạy chơi. Và đứng ngoài rào, dì tôi sẽ không oán giận nếu tình cờ nhìn thấy đứa cháu ruột mình xênh xang trong một sân golf, nơi chỉ vài năm trước là mảnh ruộng của dì, cho đến một ngày dì bị bứt lìa đi, cỏ thay màu xanh của lúa. Không vì những điều như thế này mà người ta thôi sống và tận hưởng cuộc sống. Sáng nay tôi vẫn phải la cà quán xá dù ở miền quê xa xôi, bà ngoại tôi lụm cụm xách vài con tôm sú ra chợ xã bán, đổi chút tiền còm.

Cũng đành, tôi đang cố rời đi nhưng những người thân tôi vẫn ở lại giữa đám-đông-nhỏ-bé. Cố cân nhắc trong mớ vốn liếng tiếng Việt của mình, tôi tìm được một cụm từ vụng về, cũng giống như mọi người vẫn đang xốc xáo từ điển để chọn những chữ thật dịu dàng cho số đông thương khó này, để lẩn tránh không phải dùng hai từ “tầng lớp…”.

Những chuyên san phụ nữ và thời trang, chiếc Rolls-Royce, hay những sân golf là thí dụ. Chúng hiện diện, phát triển để chờ đợi người ta gọi đúng tên những khoảng cách đang ngày càng xa biệt.

Chỉ là đôi lần chạnh nghĩ, một người viết ít nhiều đa cảm như mình mà giờ giả vờ thản nhiên rời bỏ đám đông nhỏ bé, thì những người mang chức phận, thường rất lạnh lùng và tỉnh táo, họ đứng về phía số-ít-gì- cũng-có, cũng là lẽ đương nhiên. Và đương nhiên, đám đông bị quên lãng, bị đẩy dạt đến những bìa trời. Tan tác.

Họ có làm sao thì cũng không phải lỗi của tôi. Ừ, nào phải lỗi của tôi. Không phải đâu…

Lên trang này ngày 23-3-09
Dùng bản Tư gởi

Nguồn: viet-studies.info


Read Full Post »

Nguồn: Dân Trí
(Dân trí) – Dù còn nhiều quan điểm bất đồng về nguyên nhân dẫn đến tâm thế, tư duy và lối sống của người Việt hiện nay nhưng hầu hết các học giả đều cho là: người Việt hiện nay… xấu xí.

Phố hoa Hà Nội bầm dập vì người dân chen nhau chụp ảnh, bẻ trộm hoa.
(Ảnh: Phương Thảo
)

Ngày 20/3 và 21/3, Viện Triết học Việt Nam đã kết hợp cùng CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình tổ chức hội thảo “Đặc điểm tư duy và lối sống của người Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế” tại TPHCM. Nhiều học giả về văn hóa và triết học của cả nước đã bàn luận về lối sống người việt hiện nay và phải làm gì để hòa hợp với xã hội hòa nhập trong tương lai.

Thạc sĩ Lê Minh Tiến, Giảng viên ĐH Mở TPHCM, đưa ra hàng loạt lối tư duy xấu xí của người Việt hiện nay như: không hề thấy có lỗi khi đến trễ hay làm việc trễ; xét đoán mọi việc lẫn lộn giữa tình và lý; đùn đẩy trách nhiệm vì xem trách nhiệm tập thể cao hơn trách nhiệm cá nhân; chỉ thấy cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến cái lợi lâu dài; thích làm theo hơn là sáng tạo; trọng “danh” và “sĩ”…

Theo ông Tiến, cái gốc của lối tư duy này phát sinh từ lối sống nông nghiệp bao đời nay của người Việt vẫn chưa sửa được, lối sống cộng đồng phát sinh thành tâm lý bầy đàn, “ai sao tui vậy” che mờ đi trách nhiệm cá nhân nên dẫn đến nhiều hệ lụy vì không phù hợp với xã hội công nghiệp hóa hiện nay.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích thì lấy tâm lý của bộ phận công chức ra để chứng minh cho tư duy trọng tập thể, né tránh trách nhiệm cá nhân. Ông cho là mọi cải cách thủ tục hành chính đều vô hiệu nếu người thực hiện (công chức) không có tư duy tốt.

Vì chính tư duy sợ trách nhiệm cá nhân nên họ không tin cả người dân đến làm việc với mình, đòi hòi đầy đủ giấy tờ thủ tục một cách máy móc và khô cứng, thiếu linh động dẫn đến trì trệ và mất thời gian cho người dân. Bởi họ sợ sai một chút gì là mình chịu, dẫn đến việc nước ta cải cách hành chính mười mấy năm qua nhưng hiệu quả đạt được vẫn còn khiêm tốn.

Còn Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh, một nhà hoạt động xã hội, thì lấy một hình ảnh thực tế để chứng minh cho tư duy “xấu xí” của người Việt. Đó là sự hỗn độn và xô bồ của điểm kẹt xe, ai cũng tranh nhau tiến về phía trước, chẳng ai nhường ai, để rồi ai cũng kẹt lại.

Theo bà, đó là tâm lý cái lợi giành cho mình, cái hại đẩy người khác. Từ việc sợ trách nhiệm cá nhân đã đẩy lên thành một chủ nghĩa cá nhân cực đoan trong lòng người Việt. Sự bất lực của các tổ chức quản lý giao thông chứng tỏ sự bế tắc và thiếu tầm trước một xã hội đang hiện đại hóa và thay đổi từng ngày. Và cũng chính những bon chen, bực bội ấy ngoài đời mà người Việt đem về nhà để trút giận lên người thân, gây tổn thương cho nhau, bạo lực gia đình gia tăng…

Nhiều học giả cho là người Việt cần đổi mới tư duy và lối sống để thích nghi tốt trong thời kỳ hội nhập. GS.TS Tô Duy Hợp cho là: “Thực trạng tư duy của chúng ta hiện nay vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, cần phải thực hiện đổi mới…”.

Nhưng Thạc sĩ Oanh lại đang lo lắng về sự “đổi mới” quá nhanh theo chiều hướng tiêu cực của giới trẻ. Bà kể, một chuyên gia Việt kiều mới về nước, thấy cảnh giới trẻ ùn ùn đi chơi ngày lễ Valentine đến nỗi kẹt đường phải thốt lên: “Người Việt Nam còn Mỹ hơn cả người Mỹ ở Mỹ”.

Cách ăn mặc hở hang dù trời nắng gắt hay lạnh giá, những ngôn ngữ lạ kỳ và lối sống đua đòi… Đó là sự ngoại lai, tây hóa không chọn lọc. Theo bà, nguyên nhân chính là từ nền giáo dục gia đình và nhà trường yếu kém hiện nay không trang bị cho các em đủ bản lĩnh để thích nghi và phát triển theo chiều hướng tính cực trong xã hội phát triển chóng mặt như hiện nay.

GS Nguyễn Tài Thư cho rằng, lối sống của người Việt hiện nay không đơn thuần là lối sống nông nghiệp, mà trước sự hội nhập của kinh tế đất nước, nó cũng đang đổi mới và hội nhập.

GS Trần Ngọc Thêm cũng cho là mô hình văn hóa Việt Nam đang có cuộc chuyển đổi. Tuy nhiên, sự chuyển đổi ấy hiện nay và tương lai như thế nào, tốt hay xấu, còn tùy thuộc vào ngành giáo dục, văn hóa và cả bộ máy hành chính cũng như gia đình mỗi người.

Tùng Nguyên

Read Full Post »

Thụy Khuê

Bài đăng ngày 14/03/2009 Cập nhật lần cuối ngày  14/03/2009 13:54 TU

Nguồn: RFI

Giông tố là thảm kịch về sự thấp hèn bất tín của con người trên mọi lãnh vực: không ai có thể tin được ai, không ai có thể nhờ cậy được ai. Từ trong ra ngoài, từ anh em đến cha mẹ, từ vợ đến chồng, cha đến con, tất cả đều sống trong lừa dối, bất mục, một vòng loạn luân khép kín : tội ác và lừa bịp gieo rắc khắp nơi, không thể biết hậu quả chỗ nào mà tránh.


Vũ Trọng Phụng qua nét vẽ của Côn Sinh, in trong tác phẩm Cạm bẫy ngườiNguồn : wikimedia.org

Vũ Trọng Phụng qua nét vẽ của Côn Sinh, in trong tác phẩm Cạm bẫy người
Nguồn : wikimedia.org

Vũ Trọng Phụng là một trong những khuôn mặt độc đáo nhất của văn học tiền chiến. Văn chương Vũ Trọng Phụng đối lập với văn chương Tự Lực văn đoàn và cũng khác hẳn lối hiện thực phê phán của những người cùng thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng…Trái với những nhận định của phần đông các nhà phê bình từ trước đến nay – kể cả những người như Phan Khôi, Trương Tửu – Vũ Trọng Phụng không dùng ngòi bút để chống lại một thành phần, một giai cấp, cũng không trực tiếp chỉ trích sự mục nát, thối rữa của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân, nhìn trên bề mặt, mà ông mô tả sự tha hoá của con người, trên toàn diện xã hội, dưới chiều sâu, qua nhiều từng lớp, nhiều hạng người, mỗi người có một cách tha hoá khác nhau trước thế lực của tiền bạc và tham ô.

Ra đời dưới một ngôi sao xấu

“Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu”, như lời Xuân Tóc Đỏ, nhân vật chính trong tiểu thuyết Số đỏ, Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20/10/1912 tại Hà nội, trong một gia đình nghèo. Cha là Vũ Văn Lân, làm thợ điện, mất khi Phụng mới được 7 tháng. Mẹ là Phạm Thị Khách, goá chồng mới 24 tuổi, ở vậy nuôi con và mẹ chồng.

Vũ Trọng Phụng có năng khiếu nghệ thuật từ nhỏ, biết đánh đàn, soạn nhạc, và làm thơ. Học xong Cao đẳng tiểu học, 16 tuổi, thi vào trường sư phạm không đỗ, phải kiếm việc, làm thư ký cho nhà hàng Gô Đa, rồi nhà in Viễn Đông trong 2 năm.

Từ 18 tuổi, chuyển hẳn sang viết văn, làm báo, còn có các bút hiệu  khác là Thiên Hư, Phụng Hoàng… Trong chín năm từ 1930 đến 1939, Vũ Trọng Phụng đã cộng tác với nhiều tờ báo như Hà thành ngọ báo, Nhật tân, Hải Phòng tuần báo, Công dân, Tiểu thuyết thứ bẩy, Hà nội báo, Tương lai, Tiểu thuyết thứ năm, Sông Hương, Đông dương tạp chí, Tao đàn, v.v… và viết đủ mọi thể loại.

Sống bằng nghề cầm bút, luôn luôn trong cảnh túng bẫn. Năm 1937 lập gia đình với Vũ Mỵ Lương, sinh được một bé gái, tên là Mỵ Hằng. Vũ Trọng Phụng bị lao, nhưng vẫn dốc hết sinh lực ra viết đến hơi thở cuối cùng. Xuất hiện trên văn đàn năm 1930, năm sau, đã nổi tiếng với vở kịch Không một tiếng vang, và hai năm sau, qua những phóng sự như Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Vũ Trọng Phụng trở thành ngòi bút phóng sự nổi tiếng nhất đất Bắc.

Năm 1936, xuất bản bốn cuốn tiểu thuyết: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, và Làm đĩ, gây xôn xao dư luận. Bệnh tật và làm việc quá sức, Vũ Trọng Phụng mất ngày 13/10/1939 tại Hà Nội, ở tuổi 27. Với sức sáng tác sung mãn lạ kỳ, trong 9 năm cầm bút Vũ Trọng Phụng để lại trên dưới 30 truyện ngắn, 9 cuốn tiểu thuyết, 8 thiên phóng sự, 6 vở kịch… Phần lớn là những tác phẩm có giá trị.

Sinh cùng năm với Hàn Mặc Tử và mất trước Hàn Mặc Tử một năm, Vũ Trọng Phụng cùng với Hàn Mặc Tử và Bích Khê, là ba thiên tài mệnh yểu của văn học Việt Nam trong thế kỷ XX.

Ở miền Bắc, trong suốt thời gian dài, từ thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm đến giai đoạn đổi mới, Vũ Trọng Phụng bị coi là nhà văn phản động, có tư tưởng chống cộng.

Vũ Trọng Phụng bị loại trừ khỏi văn học Việt Nam vì người ta tìm thấy : “Trong di sản Vũ Trọng Phụng có một bài báo dài nhan đề “Nhân sự chia rẽ giữa Đệ Tam và Đệ Tứ, ta thử ngó lại … (1937), đã tạo thuận lợi quyết định cho ý đồ loại trừ Vũ Trọng Phụng khỏi văn học sử nước nhà” (trích bài Một khía cạnh ở nhà báo Vũ Trọng Phụng : người lược thuật thông tin quốc tế của Lại Nguyên Ân, Tạp chí văn học, tháng 12/ 1989).

Bài báo có tên đầy đủ là “Nhân sự chia rẽ giữa đệ tứ và đệ tam quốc tế, ta thử ngó lại cuộc cách mệnh cộng sản ở Nga từ lúc khỏi thủy cho đến ngày nay” in trên Đông Dương tạp chí số ra ngày 25/9/ 1937.

Ngoài ra, những cố gắng của Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo (nhà in Minh Đức), in và giới thiệu lại tác phẩm của Vũ Trọng Phụng trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, càng làm tăng các tội “phản động” và “làm mật thám cho Tây” mà người ta gán cho nhà văn họ Vũ.

Do ảnh hưởng sâu rộng từ bài viết triệt hạ thâm độc Vũ Trọng Phụng của Hoàng Văn Hoan và các tê-no khác như Nguyễn Đình Thi, Vũ Đức Phúc… Vũ Trọng Phụng bị khai trừ hẳn trên văn đàn miền Bắc.

Đến thời kỳ đổi mới, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng mới thực sự được in lại, với Tuyển tập Vũ Trọng Phụng do Nguyễn Đăng Mạnh soạn và viết bài giới thiệu, nhà xuất bản Văn Học in năm 1987, và lễ kỷ niệm 50 năm ngày mất Vũ Trọng Phụng tại Văn Miếu Hà Nội ngày 12/10/ 1989.

Từ sự “phục hồi” này, nẩy sinh một loạt nhận định mới, nhiều người không ngần ngại “chuyển hướng”, biến Vũ Trọng Phụng thành nhà văn “cách mạng”, thậm chí một “chiến sĩ cộng sản”, đại biểu tầng lớp nông dân, cầm bút chống lại thực dân phong kiến.

Truy lùng sự thật

Thực ra Vũ Trọng Phụng không phải là nhà văn tranh đấu, hiểu theo nghiã cách mạng. Ông cũng không chống Pháp, theo nghĩa thông thường.

Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, một nhà văn đích thực, viết về sự tha hoá của con người. Tác phẩm của ông, phát xuất từ xã hội Việt nam dưới thời Pháp thuộc, những năm 30-40, với tất cả những tệ đoan của thời đó, nhưng Vũ Trọng Phụng không quy kết trách nhiệm cho tập đoàn lãnh đạo là chính phủ bảo hộ, hoặc nhà vua Annam, mà ông đào sâu hơn, điều tra mỗi hành động của cá nhân con người, để xác định trách nhiệm mỗi cá nhân trước bổn phận và đạo đức sống của chính mình.

Trong những truyện ngắn đầu tiên như Một cái chết (1931), Bà lão lòa (1931), ông đã nêu đích danh thủ phạm của những cái chết bi thương, đói khát, là lòng dạ ác độc, không cưu mang nhau, giữa người với người.

Chính vì điểm ấy mà Vũ Trọng Phụng khác những nhà văn cùng thời. Tác phẩm của ông không bị giới hạn trong luận đề chôn xã hội cũ, như phần lớn các thành viên Tự Lực văn đoàn, ông cũng không tố cáo những bất công của xã hội thực dân như các ngòi bút hiện thực phê phán.

Vũ Trọng Phụng là nhà văn tả chân đúng nghiã nhất của hai chữ tả chân : nghiã là ông chỉ truy lùng sự thực, ông chỉ đi tìm sự thực về con người mà thôi. Vì vậy, tác phẩm của Vũ đạt tới sự phổ quát : những nhân vật của Vũ có thể tìm thấy trong bất cứ xã hội nào mà tham nhũng và tiền bạc làm chủ, xưa cũng như nay, Đông cũng như Tây.

Tác phẩm Giông tố

Giông tố không phải là quyển tiểu thuyết như Tắt đèn của Ngô Tất Tố, hay Đoạn tuyệt của Nhất Linh. Có nghiã là nó không chỉ tố cáo sự thối nát trong chế độ làng xã thôn quê, sự bóc lột người cùng đinh của bọn giàu có, quan lại, ở nông thôn, của một thời Pháp thuộc, như Ngô Tất Tố. Nó lại càng không đả phá chế độ gia đình trị trong xã hội cổ truyền đầu thế kỷ XX, như Nhất Linh.

Vũ Trọng Phụng trình bày con người của mọi thời dưới khía cạnh thực nhất: Đó sự thay lòng đổi dạ  của con người trong một môi trường xã hội mà tiền bạc có thể chi phối tất cả.

Vũ Trọng Phụng viết về sự tha hoá của con người trong khi các tác giả khác mới chỉ đề ra những nạn nhân của chế độ, như Loan trong Đoạn tuyệt, nạn nhân của chế độ mẹ chồng nàng dâu ; Dậu trong Tắt đèn, nạn nhân của sưu cao thuế thuế nặng, của quan lại dâm ô ; Bính trong Bỉ vỏ, nạn nhân sự phản bội của người tình, sự tàn ác của cha mẹ, sự đoạ đầy của xã hội, v.v…

Nhân vật của Vũ Trọng Phụng khác hẳn: trong Giông Tố, chúng ta không tìm ra được khuôn mặt nào đáng thương quá đáng, cũng không tìm thấy khuôn mặt nào đáng ghét quá đáng, kể cả Nghị Hách và Thị Mịch, là hai đối trọng, kẻ hiếp dâm và kẻ bị hiếp.

Trong Giông tố, (cũng như trong Vỡ đêSố đỏ), không hề có sự chia đôi giữa nạn nhân và thủ phạm, vì thế mà những người phê bình như Trương Chính, quá quen với lối phân chia tốt xấu, không thể hiểu được sự phức tạp của con người Thị Mịch.

Nghị Hách là một triệu phú, chuyên dùng sự khủng bố, chuyên mua tất cả, làm xong tội ác cũng trả giá bằng tiền. Sau khi hiếp dâm Thị Mịch, Nghị Hách đã dùng tiền và thế lực mua chuộc quan lại, đổi ông huyện thanh liêm đi chỗ khác, sai người giải truyền đơn giả cộng sản để ghép tội dân làng, Vũ Trọng Phụng viết :

«Đến hôm quan huyện và quan đồn về khám xét cả làng thì sự khủng bố lại càng hoàn toàn, lại càng đầy đủ. Bầu không khí hầu như không thở được nữa. Trẻ già lớn bé đều đã tái xanh mặt mũi khi thấy ông chánh hội, ông phó hội, ông lý trưởng, ông phó lý, người nào cũng run như cày sấy ở trong phòng hội đồng của làng, trước một hộ râu vênh vểnh của ông quan đồn và bốn cái lưỡi kiếm sáng quắc ở miệng súng của bốn bác lính khố xanh.

Ông đồn giơ miếng vải đỏ và những mẩu giấy trắng chữ tím ra, để mắng bọn lý dịch như tát nước vào mặt họ. Trẻ con người lớn đứng xem đen ngòm… Một người lính quát một tiếng, thế là cả cái đống người tò mò ấy tan tác ra như một đàn ruồi ở sau mông con bò, lúc bị cái đuôi bò đập một cái vậy.

Tối mặt tối mũi lại, một đứa trẻ hoảng hốt cắm cổ chạy, thế nào ngã đánh bõm một cái xuống ngay ao. Tuy vậy mà bọn người lớn, sợ sệt quá, cũng không dám vớt. Khi quan huyện phải quát xuống vớt, mới có một anh chàng lực điền chắp tay vái mấy cái rồi cởi áo ra, nhảy xuống ao mò đứa bé con…

Rồi bọn lý dịch phải theo ông đồn và ông huyện ra xe hơi lên tỉnh. Hôm sau, họ được về thì lại đến lượt ông đồ phải gọi lên tỉnh có việc quan. Rồi ông đồ cũng về. Thế là cả bọn đều là những cái trứng để đầu đẳng.

Ngoài cái kiện đua hơi với ông nghị giàu có, hách dịch nhất. Chưa biết được thua thế nào, mấy người còn lo sốt vó về tội canh phòng bất cẩn, dung túng kẻ phản nghịch trong làng, hoặc ở ngoài đến tuyên truyền ở làng, và dạy học trò mà không có phép mở trường tư. Cả làng đều nằm mê thấy toàn những ngục tù, những hình phạt.

Lại đến hôm thấy cái tin ông huyện cũ phải đi, để cho ông khác về thay. Thì cả làng ai cũng tin chắc chắn, y như được ông thành hoàng báo mộng cho vậy, là ông đồ và bọn lý dịch đã ký vào đơn kiện thế nào rồi cũng vì một việc cô Mịch bị hiếp mà mất chức, mà ngồi tù!» (trích Giông tố, trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, nxb Văn Học, 1987, trang 254).

Đoạn văn trên đây, không hề mô tả dân làng như những nạn nhân vô tội, điều mà chúng ta thường thấy trong những tác phẩm hiện thực thời ấy.

Vũ Trọng Phụng thoát khỏi lối trình bày một chiều phân chia nạn nhân và thủ phạm, ông mô tả dân làng, dưới những nét hiện thực tả chân : khi có việc tố tụng, mới thấy tính chia rẽ và nhu nhược không những của dân quê mà còn cả bọn lý dịch. Sự sợ sệt của họ trước bất cứ việc gì dây dưa tới cửa quan, càng khiến bọn nha lại dễ dàng khu xử theo luật tắc của đồng tiền, mà những kẻ như Nghị Hách, có đầy đủ phương tiện để chi phối toàn bộ guồng máy quan trường theo ý mình.

Trong Vỡ đê, Vũ Trọng Phụng trình bày vấn đề tranh đấu của người dân đi hộ đê. Mặc dù có Phú, một thanh niên có học, biết luật, đứng lên dẫn đầu cuộc tranh đấu cho quyền lợi lương bổng, nhưng họ cũng vẫn trong tình trạng ô hợp, xung động, mất trật tự, chỉ cần mấy lời đe dọa của lũ nha lại, là tất cả đều tan rã, không đủ khí phách để đi đến cùng. Hai nhược điểm chính của người dân nước ta là chịu nhẫn nhụckhông kiên quyết, cho nên họ không thể đấu tranh giành quyền sống, giành tự do, dân chủ được.

Toàn bộ tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói lên điều đó như một lời tiên tri và vẫn còn đúng tới hôm nay. Vũ Trọng Phụng muốn nói : phải trách mình chứ đừng nên trách người.

Những nhân vật người Pháp trong tiểu thuyết của ông, thường không phải là bọn tham quan ô lại, mà bọn tham ô, thường là người Việt. Chính người Việt đã xử tệ với dân Việt, chính người Việt đã tham nhũng, tồi tàn, đã làm bẩn xã hội Việt.

Vì thế, ông không trình bầy một xã hội chia hai, một bên là bọn quan trường Pháp thuộc tàn nhẫn, đẫm máu người và một bên là đám dân đen Việt Nam trong sạch và vô tội bị thực dân bóc lột đoạ đầy, mà ông trình bày sự ti tiện của con người trước áp lực của kim tiền và tham nhũng. Tác phẩm của ông đào sâu xuống cái thấp hèn của con người, cái thối nát của chính những người Annam, những tri huyện, tổng đốc, đã lạm quyền, những bọn cai đội, lý dịch đã ra tay đàn áp, bóc lột dân nghèo.

Vũ Trọng Phụng đã sớm nhìn thấy trách nhiệm của người mình đối với người mình. Thấy nước mình tàn tệ như thế là vì người mình thối nát, ông không đổ lỗi cho thực dân Pháp, cho chính quyền thuộc địa, nghiã là ông không che đậy trách nhiệm cá nhân của người Việt, trước tình trạng thê thảm của dân Việt: quan trường tham nhũng, người dân ù lỳ, nhẫn nại, chỉ biết sợ sệt, chịu đựng, không biết đoàn kết, không có đầu óc đấu tranh.

Tất cả những nhược điểm ấy của người Việt, được Vũ Trọng Phụng đề cập từ năm 1936, đến nay vẫn không thay đổi, và đó là lý do giải thích tại sao chúng ta vẫn còn là một trong những nước cuối cùng, tồn tại một chế độ toàn trị, trong khi hầu như cả thế giới đã loại  bỏ.

Sự bất nhân trong tính người

Ở Vũ Trọng Phụng là sự phản tỉnh rất sớm về cái gọi là «tính người». Năm 1936, khi viết ba tác phẩm chính của mình là Giông tố, Số đỏVỡ đê, Vũ Trọng Phụng mới 24 tuổi, mà ông đạt tới độ chín của các nhà văn đứng tuổi từng trải.

Có lẽ bởi Vũ Trọng Phụng đã phải vào đời sớm, làm nghề nhà báo, phải xông xáo trong những môi trường ăn chơi trụy lạc, đến các cửa quan, về thôn ổ. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng trước tiên là ngòi bút phóng sự điều tra, văn phóng túng, trực tiếp, đốp chát, là thứ hiện thực hàng ngày được đưa lên mặt báo.

Tiểu thuyết Giông tố gần như tổng hợp các tin vặt có thể lượm được trên một cột báo bình dân khoảng năm 1932. Thí dụ: tin Nghị Hách hiếp dâm một cô gái quê, tên Thị Mịch, con ông bà đồ Uẩn. Quỳnh thôn thấy con gái trong làng bị nhục, đồng đơn kiện Nghị Hách. Quan huyện thanh liêm muốn làm cho ra lẽ, bị quan Tổng đốc, thân Nghị Hách, đổi đi chỗ khác… Dân làng khi chưa kiện, biện luận hùng hồn, “nhất trí” một lòng một dạ, nhưng khi chạm đến cửa quan thì mỗi người một bụng, không ai muốn dây dưa, chỉ sợ tai bay vạ gió, không khéo lại vào tù…

«Tính người» trong tiểu thuyết Giông tố được phô bày một cách phũ phàng, không thương tiếc : Từ cô Mịch, con gái ông đồ, hiền lành, ngây thơ, quê mùa, đã hứa hôn với Long, một thanh niên đứng đắn. Mịch ban đầu là nạn nhân, bị hãm hiếp, được dân làng thương xót, rồi Mịch có mang, bị mọi người đàm tiếu, khinh bỉ.

Tú Anh, con trưởng của Nghị Hách, tưởng là một nhân vật tốt, muốn cứu vớt thanh danh gia đình Mịch, đã bắt buộc bố phải cưới Thị Mịch làm vợ lẽ ; nhưng để thực hiện chương trình phúc thiện, Tú Anh đã dùng những thủ đoạn đen tối, lừa dối hai người tình Mịch và Long làm cho họ hiểu lầm nhau.

Khi trở thành vợ bé Nghị Hách, một bước lên «bà lớn», Mịch cảnh vẻ, quát tháo con ở, ngoại tình với Long, dâm đãng như bất cứ người đàn bà có tiền, có thế lực nào. Ông bà đồ, cha mẹ Mịch ngày trước thanh bần trong sạch, tôn trọng đạo đức thánh hiền, nay vểnh vao trong chiếc xe hơi của Nghị Hách, dạo phố Hà nội, như những kẻ giàu mới phất, mặt mũi phởn phơ, không kém gì hạng người mà ngày trước ông bà đã từng khinh bỉ. Chính bản thân Mịch cũng thù ghét cha mẹ ở thái độ đổi trắng thay đen, đã bán khoán mình với giá rẻ cho Nghị Hách để hưởng giàu sang.

Đầu óc rửa thù bao trùm lên toàn thể nhân vật trong tiểu thuyết : gia đình Nghị Hách là một cuộc ân oán trên hai thế hệ với những oan nghiệt do chính Nghị Hách gây ra. Dùng tất cả những thủ đoạn đê hèn để làm giàu và tiến thân, Nghị Hách là một trường hợp đặc biệt của tội ác: hiếp dâm, giết người, không hề ngần ngại, miễn sao đạt được hai mục đích: thỏa mãn tính dâm dục và thành công trong địa hạt tiến thân. Chính đứa con trai của Nghị Hách xét đoán cha như sau: «Cái thằng cha ấy nó đẻ ra moa, chính là vì một phút điên rồ của xác thịt đấy!…

Cũng vì thế mà lúy bỏ ma me, để ma me nghèo, chết, rồi bây giờ lúy lại chực từ nốt cả moa! Các đằng ấy bảo vì lẽ gì tớ lại không rửa thù?» (trang 244).

Sự rửa thù, trong tác phẩm, từ trong gia đình ra đến xã hội, không chỉ có trong gia đình thối nát của Nghị Hách, mà trong cả gia đình Thị Mịch, đối cảnh của Nghị Hách, cũng không thoát khỏi : Bà đồ Uẩn, trong sự giàu sang, hãnh diện vì trả thù được bọn dân làng, đã từng khinh bỉ, riếc móc con gái bà.

Mịch trước khi bị hiếp dâm đã yêu Long, hai người đã chuẩn bị cưới hỏi. Sau khi bị nhục, Mịch nghĩ mình không còn xứng đáng với người tình, đã treo cổ tự vẫn nhưng không chết, Long đã hiểu cho tình cảnh Mịch, nhưng rồi sau đó, bị nghi ngờ chiếm hữu, Long xa lánh dần.

Mịch đi từ vị trí một người chọn chết để giữ thanh danh và trong sạch với người yêu, sang vị trí một người bất cần, trong Mịch chỉ còn lại sự căm hờn cho nhân tình thế thái:

«Trước kia Mịch tự tử là vì ái tình. Bây giờ Mịch không được yêu, thì Mịch chỉ trông thấy sự căm hờn mà thôi. Mà sự căm hờn chỉ nuôi, chứ không giết» (trang 335)

« Mịch đối với Long chỉ còn sự căm hờn» (trang 357).

Đối với cha mẹ, Mịch cũng bị oán thù chi phối :

«Mịch thấy mẹ mình như là hèn hạ quá, nhẫn tâm quá» (trang 359)

«Mịch oán giận mẹ. Căm tức bố, khinh bỉ anh» (trang 396).

Giông tố là thảm kịch về sự thấp hèn bất tín của con người trên mọi lãnh vực, không ai có thể tin được ai, không ai có thể nhờ cậy được ai. Từ trong ra ngoài, từ  anh em đến cha mẹ, từ vợ đến chồng, cha đến con, tất cả đều sống trong lừa dối, bất mục, một vòng loạn luân khép kín: Tội ác và lừa bịp gieo rắc khắp nơi, nên không thể biết hậu quả chỗ nào mà tránh.

Bộ ba tiểu thuyết then chốt: Giông tố, Số đỏVỡ đê, đã xây dựng nên vũ trụ Vũ Trọng Phụng, một vũ trụ đen tối mà con người đối xử với nhau không hơn gì loài thú.

Khía cạnh bất nhân trong nhân tính, sau này chúng ta thấy lại trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp.

Vũ Trọng Phụng là nhà văn Việt Nam đầu tiên đã phanh phui «thú tính» nơi con người, kể cả những người được coi là «hiền lành, chân thật». Trong khi những tác giả hiện thực cùng thời mới chỉ phân chia xã hội thành hai lớp lang tốt và xấu, đề cao cái tốt và hạ bệ cái xấu.

Vũ Trọng Phụng đi trước thời đại, bước lên trên lối phân tích luân lý giáo khoa đó, ông tả chân một xã hội hai mặt với những con người hai mặt, dùng đối thoại và độc thoại nội tâm của các nhân vật, như một phương pháp thám hiểm vùng tiềm thức của con người, ở thời điểm những năm 30 của thế kỷ trước.

Read Full Post »


(Bài của Đỗ Trung Quân về quy hoạch đô thi Sài Gòn)

1. Nếu là người Sài Gòn chúng ta sẽ dễ dàng đồng ý với nhau một điểm: không đâu mà nhịp độ xây dựng nhanh như ở Sài Gòn – nơi có những con đường mà ta thường đi hàng ngày. Chỉ cần lơ đãng không chú ý chỉ một vài tuần lễ, một vài tháng, ta một hôm sẽ phải kêu lên thảng thốt “Trời! lại thêm một toà cao ốc!”. Thêm một toà cao ốc, cái nhan sắc Saì Gòn hứa hẹn lại lộng lẫy thêm nhưng con đường nơi có toà cao ốc đang kiêu hãnh vươn cao chưa chắc còn là con đường đẹp nếu nó không phải đại lộ, chỉ là con đường nho nhỏ với hai hàng cây bóng mát như Mạc Đĩnh Chi hay Phạm Ngọc Thạch (quận 1). Đơn giản, toà cao ốc có thể đã phá vỡ cảnh quan đẹp, trữ tình trước đó với những biệt thự chỉ một trệt một lầu, thân mật nằm cạnh nhau mà khi quy hoạch nó, những nhà quy hoạch đã phải giải một bài toán hoàn hảo.

Những con đường của Sài Gòn đâu thoát ngoài quy luật phát triển đô thị

2. Không chỉ những con đường nhỏ. Giờ đây trong những hẻm ngõ có mang tên đường. Với người đi xa lâu ngày trở lại ta cũng khó lòng hướng dẫn, chỉ lối nếu chỉ căn cứ vào những đặc điểm của ngày xưa như “cây sao, cây xoài đầu hẻm… hay nhà tôi bên cạnh ngôi nhà có hàng rào hoa bông bụp, ngôi nhà kiểu Pháp…v.v”. Sự thay đổi chớp nhoáng trong xây dựng nhanh chóng xoá sạch dấu tích ngỡ tưởng mãi còn nằm đó. Con hẻm, con đường ngày nào đã biến mất dấu tích những ngôi nhà đặc trưng cũ, thay vào đó là những ngôi nhà mới với đủ màu sắc, kiểu dáng kiến trúc tuỳ thích của gia chủ.

Cảnh quan đổi thay là quy luật sống “sông kia rày đã lên đồng… chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai…”, huống chi đô thị lớn. Vùng ven của Sài Gòn nay đã mất hẳn khái niệm “vùng ven”, nó đã thành thị trấn, thị xã, khu công nghiệp, chung cư cao tầng hầu hết… Những con đường của Sài Gòn đâu thoát ngoài quy luật phát triển đô thị. Vấn đề ở chỗ ai cũng thấy, ai cũng dễ dàng nhận ra nó dần như hàm răng mọc lộn xộn, chiếc cao chiếc thấp, chiếc đâm ngang, chiếc lòi sỉ. Gương mặt đô thị có khi xấu dần dù lô nhô cao ốc lộng lẫy.

Quy hoạch mà như… không quy hoạch đấy – chính là “nỗi buồn đô thị”, nỗi buồn lộng lẫy chứ không vắng vẻ, uể oải như “vẻ buồn tỉnh lỵ” được tạo nên bởi nhịp điệu chậm rãi, buồn buồn của cảnh quan nhỏ nhắn, xa vắng…

3. Ngồi sau lưng tôi là người bạn hàng chục năm mới trở lại Sài Gòn. Con đường Duy Tân cây dài bóng mát ngày xưa là sinh viên Luật của anh vẫn còn đó. Hàng cây còn đó, nhưng hàng cây đã “lùn”xuống vì cao ốc vươn lên khập khễnh. Con đường không nhỏ nhắn mà chật chội hẳn đi bởi bầu trời cũng hẹp lại. Cái êm đềm của một con đường đẹp, thơ mộng một thời nay không còn. Tôi đành an ủi “30 năm trước thành phố Sài Gòn dân số chưa đông như bây giờ, nay nó đành phải chen chúc chứ biết làm sao!”. Anh im lặng nhưng tôi biết lòng anh đang tiếc nuối con đường êm ả của một thời lãng mạn, đi bên người yêu với chiếc dù che màu tím qua những biệt thự xinh xắn ẩn trong vòm lá me xanh rười rượi.

Cái gì mất đã mất, cái gì mọc lên đã mọc lên. Một đô thị hài hoà với những con đường gọn gàng hay thênh thang nhưng ngăn nắp, trật tự phù hợp giữa nhà cửa, phố xá với cỏ cây. Có lẽ giờ đây ta chỉ còn có thể gặp lại nơi xa hơn: những khu đô thị mới như Phú Mỹ Hưng, chẳng hạn.

Sài Gòn đã hết đất, đã lỡ rồi, đã dần xấu đều. Nhưng kể cả cái “lỡ rồi” cũng không phải vô ích, nó vẫn cho ta những bài học quý giá cho quy hoạch về sau nơi này, nơi khác.

Thôi thì thôi vậy…

Bài: Đỗ Trung Quân
Ảnh: Phan Quang

Read Full Post »