XX
Nhưng ông hoàng nhỏ, sau khi đi rất lâu qua cát, đá và tuyết, cuối cùng cũng tìm thấy một con đường. Và mọi con đường đều đưa đến chỗ có người ở.
ấy là một khu vườn đầy hoa hồng
Ông hoàng nhỏ nhìn các hoa hồng. Tất cả bọn họ đều giống bông hoa của em.
Và em cảm thấy rất đau khổ. Đoá hoa của em đã đã kể với em rằng nàng là duy nhất trong giống nòi của nàng khắp trong vũ trụ. Và ở đây có đến năm nghìn đoá giống như nhau, chỉ mới trong mỗi một khu vườn. “Nàng sẽ ngượng lắm đây, em nghĩ thầm, nếu thấy cảnh này. Nàng sẽ ho rũ rượi và giả chết cho đỡ ngượng. Còn ta sẽ phải làm ra vẻ an ủi vỗ về nàng, nếu không, để làm chính ta cũng phải xấu hổ, nàng dám chết thật mất”. Rồi em lại tự bảo: “Ta tưởng ta đã giàu lắm với một đoá hoa duy nhất. Cái đó cộng với ba quả núi lửa cao ngang đầu gối cuả ta, mà một quả, có lẽ, đã tắt mãi mãi, cái đó chẳng làm cho ta thành một ông hoàng lớn lắm đâu”. Và, nằm dài trong cỏ, em khóc.
XXI
Chính vào lúc đó con cáo xuất hiện.
Nhưng sau khi suy nghĩ, em hỏi thêm
Con cáo có vẻ chú ý:
Nhưng rồi cáo trở lại với ý nghĩ của nó:
Cáo im lặng và nhìn ông hoàng nhỏ một lúc lâu:
Ngày hôm sau, ông hoàng nhỏ trở lại.
Thế là ông hoàng nhỏ cảm hoá con cáo. Và giờ ra đi đã đến:
Rồi nó nói thêm:
Ông hoàng nhỏ đi thăm lại những đoá hoa hồng.
Và các bông hồng hết sức lúng túng.
Rồi em trở lại chỗ con cáo:
XXII
Và lại tiếng ầm ầm của chiếc tàu nhanh thứ ba sáng choang.
XXIII
“Ta, ông hoàng nhỏ nghĩ thầm, nếu ta có năm mươi ba phút để làm gì thì làm, ta sẽ bước thật nhẹ nhàng đến một cái nguồn nước…”
XXIV
Lúc đó là ngày thứ tám từ khi tôi bị hỏng máy trong sa mạc, và tôi vừa nghe câu chuyện người lái buôn vừa uống giọt nước cuối cùng trong số nước dự trữ.
Em không hiểu lý lẽ của tôi, em trả lời tôi:
Em không lường được hiểm nguy, tôi nghĩ thầm. Em không hề đói hay khát. Một chút mặt trời cũng đủ cho em rồi. Nhưng em nhìn tôi và trả lời điều tôi vừa nghĩ:
Tôi phác một cử chỉ mệt mỏi: thật là phi lý khi đi tìm một cái giếng, một cách hú hoạ, ở trong sa mạc mênh mông. Tuy thế, chúng tôi vẫn bước đi. Khi chúng tôi bước đi, im lặng, giờ này qua giờ khác, màn đêm buông xuống và các vì sao bắt đầu toả sáng. Tôi nhìn mọi vật như trong cơn mê, đầu nóng bừng vì khát. Những lời ông hoàng bé nhỏ nói nhảy múa trong trí nhớ tôi.
Nhưng em không trả lời câu tôi hỏi. Em chỉ nói giản dị:
Tôi không hiểu câu em đáp nhưng tôi im lặng … tôi biết là không nên hỏi em. Em thấy mệt. Em ngồi xuống. Tôi ngồi xuống cạnh em. Và sau một lát im lặng, em lại nói:
Tôi đáp lại “Đúng thế” và tôi nhìn, không nói, những gợn sóng của cát dưới ánh trăng.
Điều này đúng. Bao giờ tôi cũng yêu sa mạc. Ta ngồi trên một đụn cát. Ta không trông thấy gì hết. Ta không nghe thấy gì hết. Nhưng có một cái gì đó toả sáng trong lặng lẽ…
Tôi kinh ngạc vì bỗng nhiên hiểu ra cái ánh sáng huyền bí ấycủa cát. Khi còn là một cậu bé tôi ở trong một ngôi nhà cổ, và có một truyền thuyết là ở ngôi nhà cổ này có chôn một kho báu. Tất nhiên, chưa ai tìm ra kho báu đó, có lẽ cũng chưa ai thử đi tìm. Nhưng nó đã làm cho ngôi nhà trở nên thành tiên. Cái nhà của tôi có giấu trong đáy trái tim của nó một điều bí mật…
Khi ông hoàng nhỏ bé thiu thiu ngủ, tôi bế em lên vòng tay và lại lên đường. Lòng tôi xúc động. Tôi có cảm giác như đang giữ một kho báu mong manh. Tôi có cảm giác như trên Trái Đất này không có gì mong manh hơn. Tôi nhìn, dưới ánh sáng trăng, vầng trán xanh xao ấy, đôi mắt nhắm nghiền, những lọn tóc run rẩy trước gió, và tôi nghĩ thầm: cái mà ta thấy đây chỉ là một cái vỏ. Cái quan trọng nhất thì không nhìn thấy được … Khi đôi môi hé mở của em thoáng một nụ cười, tôi lại tự nhủ: cái làm cho ta xúc động mạnh đến thế về ông hoàng bé nhỏ đang ngủ này, đó là lòng chung thuỷ của em đối với một đoá hoa hồng, ấy là hình ảnh một đoá hồng rực sáng nơi em như một ngọn đèn, cả trong khi em ngủ… Và tôi càng thấy em còn mong manh hơn. Ta phải hết sức che chở cho những ngọn đèn: một ngọn gió có thể thổi tắt được … Và, cứ bước đi như vậy, tôi tìm ra cái giếng vào lúc rạng đông.
XXV
Và em nói thêm:
Cái giếng mà chúng tôi đến, nó không giống các giếng ở sa mạc Sahara. Các giếng Sahara chỉ đơn giản là những cái lỗ đào trong cát. Còn cái này giống như giếng làng. Nhưng ở đấy chẳng có ngôi làng nào, và tôi tưởng mình đang mơ.
Em cười, sờ sợi dây, lăn cái ròng rọc. Và cái ròng rọc liền rên một tiếng, giống như tiếng rên của cái chong chóng chỉ hướng gió sau một hồi gió ngủ yên lâu quá.
Tôi không muốn em gắng sức:
Chậm rãi, tôi kéo gàu lên thành giếng. Tôi đặt nó chắc chắn trên đó. Trong tai tôi vẫn còn văng vẳng tiếng hát của cái ròng rọc, và trong nước vẫn còn run rẩy, tôi thấy mặt trời run lên.
Và tôi hiểu ra em tìm kiếm cái gì. Tôi nhắc chiếc gầu lên kề môi em. Em uống, hai mắt nhắm nghiền. Êm đềm như một ngày hội. Thứ nước này còn là một cái gì khác hơn mọt thứ nước uống. Nó sinh ra từ cuộc đi bộ dưới trời sao, từ tiếng hát của cái ròng rọc, từ sự gắng sức của cánh tay tôi. Nó tốt lành cho tim ta, như một món quà tặng. Ngày tôi còn là một cậu bé, ánh sáng của cây Noel, tiếng nhạc của buổi lễ nửa đêm, những nụ cười dịu dàng cũng đã làm nên sự rực rỡ của món quà Noel mà tôi được nhận.
Và ông hoàng nhỏ nói thêm:
Tôi đã uống. Tôi đã nghỉ ngơi thoả thuê. Vào lúc tinh mơ, cát một màu mật ong. Tôi thấy sung sướng cả vì cái màu mật ong ấy nữa. Tại sao tôi cứ phải khổ sở…
Tôi rút từ trong túi áo ra các bản vẽ phác của tôi. Ông hoàng nhỏ trông thấy các bức vẽ bèn cười bảo:
Tôi vốn tự hào biết bao với bức vẽ các cây bao bap!
Và em lại cười nữa.
Thế là tôi dùng bút chì phác một cái rọ mõm. Và lòng tôi se lại khi đưa cái rọ mõm đó cho em:
Nhưng em chẳng trả lời tôi. Em bảo tôi:
Rồi, sau một lát im lặng, em lại nói:
Và em đỏ mặt. Và một lần nữa, chẳng hiểu tại sao, tôi cảm thấy buồn bã một cách kỳ lạ. Khi ấy tôi bỗng buột miệng hỏi:
Ông hoàng nhỏ lại đỏ mặt. Và tôi nói thêm, ngập ngừng:
Ông hoàng lại đỏ mặt lần nữa. Em không bao giờ trả lời các câu hỏi, nhưng khi người ta đỏ mặt, như thế có nghĩa là “phải”, phải không?
Nhưng em trả lời tôi:
Song tôi không yên tâm. Tôi nhớ chuyện con cáo. Có nguy cơ là ta có thể khóc một tí nếu ta lỡ để cho ai cảm hoá mình…
XXVI
Cạnh cái giếng, có một bức tường đổ nát. Khi ở chỗ làm việc trở lại vào chiều hôm sau, từ xa tôi đã thấy ông hoàng nhỏ của tôi ngồi trên đó, hai chân lơ lửng. Và tôi nghe em nói:
Một giọng nói khác có lẽ trả lời em, vì em lại đáp:
Tôi bước tiếp đến chỗ bức thành. Tôi vẫn không nhìn thấy, cũng chẳng nghe thấy ai. Thế nhưng, ông hoàng nhỏ lại đáp nữa: – … Đúng thế. Anh cứ xem nơi nào bắt đầu có dấu chân của tôi ở trên cát. Anh chỉ việc đợi tôi ở đấy. Tôi sẽ đến đêm nay. Tôi chỉ cách bức tường có hai mươi mét và tôi vẫn chẳng nhìn thấy gì. Ông hoàng nhỏ lại nói, sau một lát im lặng:
Tôi dừng lại, trái tim se thắt, nhưng tôi vẫn không hiểu.
Thế là chính tôi nhìn xuống chân tường, và tôi nhảy dựng lên. Nó ở đó, nó ngẩng đầu lên phía ông hoàng nhỏ, một giống rắn vàng có thể diệt ta trong ba mươi giây. Vừa lục túi tìm khẩu súng ngắn, tôi vừa chạy tới, nhưng, nghe tiếng tôi, con rắn liền chuồn trong cát, như thể một dòng nước chảy đi, và chẳng cần phải vội vàng, nó luồn lách giữa các tảng đá với một tiếng động nhè nhẹ như tiếng va chạm của kim khí.Tôi đến bên bức tường vừa đúng lúc để đón trong vòng tay tôi ông hoàng bé nhỏ, trắng bệch như tuyết.
Tôi tháo chiếc khăn vàng kim bao giờ cũng khoác ở cổ em. Tôi dấp nước vào chán em và cho em uống. Và bây giờ, tôi không dám hỏi em điều gì nữa. Em nhìn tôi nghiêm nghị và đưa hai tay ôm cổ tôi. Tôi nghe tiếng tim em đập như tiếng đập của một con chim sắp chết, khi bị trúng đạn súng săn. Em bảo tôi:
Đúng là lúc ấy tôi vừa định báo cho em biết, tưởng đã tuyệt vọng rồi, bỗng dưng tôi lại sửa được máy. Em chẳng trả lời câu hỏi của tôi, nhưng lại nói thêm:
Rồi, giọng ngầm ngùi:
Tôi có cảm giác vừa xảy ra một việc gì dị thường. Tôi siết chặt em trong vòng tay tôi như một em bé, nhưng khi ấy tôi vẫn có cảm giác em đang tuột thẳng xuống một vực thẳm nào đó dù tôi cố níu giữ lại… ánh mắt em nghiêm nghị, mất hút vào một nơi rất xa:
Và em mỉm cười buồn buồn. Tôi đợi rất lâu. Tôi thấy em dần dà ấm lại:
Em có sợ hãi, đúng rồi! Nhưng em cười dịu dàng:
Một lần nữa, tôi lại cảm thấy lạnh buốt người vì một cái gì đó không thể cứu vãn được nữa. Và tôi hiểu rằng tôi không thể chịu nổi ý nghĩ rồi đây không bao giờ còn nghe thấy tiếng cười này nữa. Tiếng cười ấy đối với tôi như một nguồn nước trong sa mạc.
Nhưng em bảo tôi:
Nhưng em không trả lời câu tôi hỏi. Em bảo tôi:
Em lại cười thêm nữa.
Rồi em lại cười nữa.
Rồi em lại cười nữa.
Rồi em lại cười nữa. Và em trở lại nghiêm nghị:
Nhưng em có vẻ lo lắng.
Nhưng có cái gì đó làm em yên tâm:
Đêm ấy, tôi không trông thấy em bỏ đi. Em đã trốn đi không một tiếng động. Khi tôi đuổi kịp em, em bước quả quyết thật nhanh. Em chỉ nói với tôi:
Rồi em nắm tay tôi. Nhưng em lại dằn vặt nữa:
Tôi, tôi im lặng.
Tôi, tôi im lặng.
Tôi, tôi im lặng. Em có hơi nản. Nhưng em gắng thêm một lần nữa:
Tôi, tôi im lặng.
Và em cũng im luôn, bởi vì em khóc…
Và em ngồi xuống vì sợ. Em lại nói nữa:
Tôi ngồi xuống vì không thể giữ mình đứng được nữa. Em nói:
Em lưỡng lự một chút, rồi đứng lên. Em bước một bước. Còn tôi, tôi không thể nào cử động được. Chỉ có một loáng chớp màu vàng gần bên mắt cá chân em. Em đứng một lúc không động đậy. Em không kêu. Em ngã xuống nhẹ nhàng như một cái cây. Cả một tiếng động cũng không có, là bởi vì cát.
XXVII
Và giờ đây, đúng vậy, sáu năm đã trôi qua… Tôi chưa bao giờ kể lại câu chuyện này. Những bạn bè gặp lại tôi rất lấy làm hài lòng thấy tôi còn sống. Tôi đã rất buồn, nhưng tôi nói với họ: Đó là vì mệt… Bây giờ tôi đã nguôi nguôi. Nghĩa là… không hẳn là như thế. Nhưng tôi biết em đã trở về tinh cầu của mình, vì sáng sớm hôm sau, tôi đã không tìm thấy thân xác em. Cái thân xác chẳng nặng nề gì mấy… Và ban đêm, tôi thích lắng nghe các ngôi sao. Chúng như năm trăm triệu cái chuông nhỏ… Nhưng có xảy ra một điều gì đó không bình thường. Chiếc rọ mõm tôi đã vẽ cho ông hoàng nhỏ, tôi đã quên vẽ thêm cái đai da. Em sẽ không thể nào buộc nó cho con cừu được. Thế là tôi tự hỏi: ” Chuyện gì đã xảy ra trên tinh cầu ấy? Có lẽ con cừu đã ăn mất đoá hoa chăng…” Khi thì tôi tự nhủ: “Chắc là không! Ông hoàng nhỏ đêm nào cũng đậy hoa trong cái bầu kính, và em cũng trông chừng con cừu cẩn thận…” Thế là tôi vui sướng. Và tất cả các ngôi sao mỉm cười dịu dàng. Khi thì tôi tự nhủ: “Thế nào chẳng có lúc người ta lơ đãng, và thế là đủ! Em đã quên mất, một đêm nào đó, cái bầu kính, hoặc con cừu lẻn ra không một tiếng động trong đêm…” Thế là những cái chuông nhỏ đều biến thành nước mắt!… Đó là một bí ẩn lớn lao. Với bạn, là người cũng yêu ông hoàng bé nhỏ, cũng như với tôi, cả vũ trụ này sẽ chẳng còn như cũ nếu như ở đâu đó, không biết ở đâu, một con cừu mà ta không biết, đã có hay là không ăn một đoá hoa hồng… Hãy nhìn lên trời. Hãy tự hỏi: con cừu đã có ăn hay không ăn đoá hoa? Và bạn sẽ thấy tất cả đều thay đổi… Và không một người lớn nào lại hiểu được chuyện ấy quan trọng đến nhường nào!
Cảnh ấy đối với tôi, là cảnh đẹp nhất và buồn nhất trên thế gian. Nó cũng là cái cảnh ở trang trước, nhưng tôi đã vẽ một lần nữa để bạn nhìn rõ hơn. Chính tại nơi đây ông hoàng bé nhỏ đã xuất hiện trên Trái Đất, rồi lại biến đi. Hãy nhìn chăm chú cảnh này cho đến khi bạn chắc rằng bạn có thể nhận ra nó, nếu ngày kia bạn du hành sang châu Phi, trong sa mạc. Và nếu bạn tình cờ đi ngang qua đó, tôi xin bạn, xin bạn đừng vội, hãy nán lại một chút ngay dưới ngôi sao ! Nếu bấy giờ có một đứa bé đến bên bạn, nếu em cười, nếu em có mái tóc vàng óng, nếu em không trả lời khi người ta hỏi, bạn sẽ đoán ra đấy là ai. Bấy giờ bạn hãy thương tôi ! Đừng để tôi buồn quá thế này : Hãy viết thư cho tôi báo rằng em đã trở lại… |
Antoine Marie Roger de Saint-Exupéry (1900 – 1944)
Văn sĩ và phi công người Pháp, một anh hùng trong đời thực, người nhìn sự phiêu lưu mạo hiểm dưới góc độ của một thi sĩ – hoặc đôi khi với con mắt trẻ thơ. Hoàng tử bé là tác phẩm nổi tiếng nhất của Saint-Exupéry, ra đời vào năm 1943 và đã trở thành một trong số các tác phẩm văn học cổ điển dành cho trẻ em trong thế kỷ hai mươi. Ông tham gia Chiến tranh Thế giới lần II với cương vị phi công chiến đấu. Máy bay của ông bị bắn rơi trên vùng trời nước Pháp vào năm 1944. ” Những người lớn, chẳng bao giờ tự họ hiểu đươùc cái gì cả, và thật là mệt cho trẻ con lúc nào cũng phải giải thích cho họ. ” (trích Hoàng tử bé, 1931)
Antoine de Saint-Exupéry sinh ở Lyons ngày 29 tháng 6 năm 1900 trong một gia đình quí tộc địa phương lâu đời. Cha ông là một chuyên viên công ty bảo hiểm, mất năm 1904 vì chứng đột quị. Mẹ ông, bà Marie de (Fonscolombe) Exupéry (1875- 1972), đưa các con đến Le Mans vào năm 1909, tại lâu đài Saint-Maurice-de-Rémens của người dì. Tại đây, ông đã trải qua những năm tháng tuổi thơ giữa những người thân của mình. Ông theo học các trường dòng Jesuit ở Montgré và Le Mans, và cả trường Công giáo ở Thụy Sĩ (1915-1917). Sau khi thi rớt trường dự bị đại học, ông đăng ký học môn kiến trúc ở trường cao đẳng Beaux-Arts.
Bước ngoặt của cuộc đời ông xảy ra khi ông nhập ngũ vào năm 1921, và được gởi đến Strasbourgh để dự khóa huấn luyện phi công. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1921, ông bay chuyến đầu tiên một mình với kiểu máy bay Sopwith F-CTEE. Ông lấy bằng phi công vào năm 1922, và sau đó định cư ở Paris nơi ông khởi sự viết văn. Tiếp theo đó là những năm kém may mắn. Cuộc đính hôn của ông với nữ văn sĩ Louise de Vilmorin bị hủy bỏ, và ông cũng không thành công trong việc viết lách và kinh doanhư Ông phải làm hàng loạt nghề từ quản thủ thư viện đến buôn bán động cơ. Tác phẩm đầu tay của ông là truyện ngắn Người lái máy bay (L’Aviateur) xuất bản vào năm 1926 trên tạp chí văn học Le Navire d’argent. Sau đó, ông tìm thấy một công việc thực sự, là chuyên chở thư tín cho công ty thương mại hàng không Aéropostale ở Bắc Phi trong 3 năm, với nhiều lần chết hụt. Vào năm 1928, ông làm giám đốc vùng bay Cap Juby ở Rio de Oro, sâu trong sa mạc Sahara. Ông yêu thích sự cô độc của sa mạc và mô tả vẻ đẹp hoang dã của nó trong các tác phẩm Hoàng tử bé và Thành trì (1948). Trong vòng 3 năm, Saint-Exupéry viết tiểu thuyết Tàu thư phương nam (1929), ngợi ca lòng dũng cảm của những phi công đầu tiên, những con người đã bất chấp hiểm nguy trong cuộc đua tranh tốc độ, để chiến thắng các đồng nghiệp đưa thư của họ theo đường tàu hỏa và đường thủy. Một mạch truyện khác trong tác phẩm này mô tả cuộc tình bất thành của tác giả với nữ văn sĩ Louise de Vilmorin. Tàu thư phương nam được đạo diễn Robert Bresseo dựng thành phim vào năm 1937.
Vào năm 1929, Saint-Exupéry đến Nam Mỹ làm công việc chuyên chở thư tín qua dãy Andes. Kinh nghiệm này làm nên cốt truyện của tiểu thuyết thứ hai, Bay đêm, đã trở thành một bestseller trên bình diện quốc tế, đoạt giải Femina, và được được đưa lên màn ảnh vào năm 1933, với các ngôi sao điện ảnh Clark Gable và Lionel Barrymore. Trong câu chuyện, Rivière, người phụ trách sân bay kiên nghị, đã từ bỏ tất cả các toan tính về hưu và xem công việc chuyên chở thư tín như là mục đích đời mình. ‘Chúng ta không cần đến sự vĩnh cửu’, ông nghĩ. ‘Điều mà chúng ta cần là không để những hành động và sự việc đột nhiên mất đi ý nghĩa thực sự của chúng. Nhờ đó, thế giới xung quanh chúng ta sẽ mở toang ra từ mọi phía.’ (trích Bay đêm)
Saint-Exupéry lập gia đình năm 1931 với Consuelo Gomez Castillo, và khởi sự làm phi công thử nghiệm cho Air France và các công ty hàng không khác. Ông viết cho tờ Paris-Soir mô tả sự cố khẩn cấp ở Moscow năm 1936, và sáng tác hàng loạt bài viết về Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha. Saint-Exupéry sống cuộc đời phiêu bạt, rày đây mai đó : ông mua một máy bay hiệu Caudron Simoun (F-ANRY) với số tiền còn lại của mình, và trải qua một tai nạn máy bay ở Libya, sau đó mua một máy bay Caudron Simoun khác vào năm 1937 và lại gặp tai nạn chấn thương nghiêm trọng ở Guatemala trong một vụ rớt máy bay.
Với sự động viên của người bạn André Gide, Saint-Exupéry viết một quyển sách về nghề lái máy bay. Cõi người ta, ra đời năm 1939, đoạt giải Grand Prix du Roman của Viện Hàn Lâm Pháp 1939 và giải National Book Award ở Mỹ. Đạo diễn Jean Renoir (1894-1979) muốn dựng thành phim và thảo luận với tác giả, chủ yếu về các chủ đề văn học mà ông ghi nhận. Vào thời điểm đó Renoir làm việc ở Hollywood nơi người ta dựng phim trong phim trường. Renoir đưa ra ý tưởng dựng phim ngay tại chính các địa điểm được mô tả trong truyện. Điều này sẽ có lợi thế để thành công ở Mỹ, nhưng tiếc thay, không ai muốn sản xuất bộ phim.
Sau khi nước Pháp bị thất thủ trong Chiến tranh Thế giới lần II, Saint-Exupéry gia nhập quân đội, thực hiện hàng loạt phi vụ, mặc dù ông bị xem như là không đủ khả năng lái máy bay chiến đấu do mắc phải hàng loạt chấn thương trước đây. Tuy vậy, Saint-Exupéry vẫn được phong tặng huân chương Croix de Guerre [Croix de Guerre : huân chương được nhà nước Pháp trao tặng cho các cá nhân hoặc đơn vị có thành tích trong Chiến tranh Thế giới lần II.]. Ông rời Mỹ năm 1942 và bị phê phán bởi những người đồng hương vì đã không ủng hộ lực lượng Nước Pháp Tự Do của de Gaulle ở London. Phi công chiến tranh (1942) mô tả chuyến bay tuyệt vọng của ông trên giới tuyến quân địch, khi nước Pháp đã thực sự bị đánh bại. Năm 1943 ông tái gia nhập không lực Pháp đóng ở Bắc Phi (trong phi đoàn người ta gọi ông một cách thân mật là Saint-Ex hay “thiếu tá Ex”) và xuất bản tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Hoàng tử bé (1943), một truyện ngụ ngôn trẻ em dành cho người lớn. Cuốn sách đã được dịch sang gần năm mươi ngôn ngữ.
Hoàng tử bé (1943, Le Petit Prince) – minh họa bởi chính tác giả. Câu chuyện về một phi công phải hạ cánh khẩn cấp trong sa mạc. Anh gặp một cậu bé, người hóa ra là một hoàng tử từ hành tinh khác đến. Hoàng tử kể về những cuộc phiêu lưu của em trên Trái Đất và về bông hồng quí giá trên hành tinh của em. Em thất vọng khi phát hiện ra hoa hồng là loài bình thường như bao loài khác trên Trái Đất. Một con cáo sa mạc khuyên em nên yêu thương chính bông hồng của em và hãy tìm kiếm trong đó ý nghĩa của cuộc đời mình. Nhận ra điều ấy, hoàng tử quay trở về hành tinh của em.
Ngày 31 tháng 7 năm1944, Saint-Exupéry cất cánh từ đường băng hẹp ở Sardinia trong một phi vụ trên vùng trời miền Nam nước Pháp. Và vào cái ngày định mệnh đó, “thiếu tá Ex” đã ra đi mãi mãi, không bao giờ trở về nữa… Trường hợp của ông được xem như là mất tích. Sau này, người ta đoán rằng, máy bay của ông bị bắn rơi trên vùng biển Địa Trung Hải hay có lẽ ông đã gặp phải tai nạn. Saint-Exupéry để lại bản thảo dang dở của tác phẩm Thành trì và một vài ghi chép mà chúng được xuất bản sau ngày ông mất.
“Tự do và áp bức là hai mặt của cùng một điều tất yếu, nơi mà tồn tại điều này thì không thể tồn tại điều kia” (trích Thành trì, 1948). Quyển sách phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của Saint-Exupéry đối với chính trị, và những tư tưởng then chốt sau cùng của ông.
Sự nghiệp văn chương :
- L’AVIATEUR, 1926 – Người lái máy bay
- COURRIER-SUD, 1929 – Tàu thư phương nam – Southern Mail – dựng phim 1937, đạo diễn Robert Bresseo
- VOLE DE NUIT, 1931 – Bay đêm – Night Flight – dựng phim 1933, đạo diễn Clarence Brown, với các ngôi sao điện ảnh John Barrymore, Clark Gable, Helen Hayes, Myrna Loy, Lionel Barrymore
- TERRE DES HOMMES, 1939 – Cõi người ta – Wind, Sand, and Stars
- PILOTE DE GUERRE, 1942 – Phi công chiến tranh – Flight to Arras
- LETTRE À UN OTAGE, 1943 – Thư gửi một con tin – Letter to a Hostage
- LE PETIT PRINCE, 1943 (illust. by Saint-Exupéry) – Hoàng tử bé – The Little Prince
- LA CITADELLE, 1948 – Thành trì – The Wisdom of the Sands
- .UVRES COMPLÈTES, 1950 (7 vols.)
- .UVRES, 1953
- LETTRES DE JEUNESSE, 1923-31, 1953
- CARNETS, 1953
- LETTRES À SA MÈRE, 1955
- UN SENS À LA VIE, 1956 – Cảm nhận cuộc sống – A Sense of Life
- LETTERS DE SAINT EXUPÉRY, 1960
- LETTRES AUX AMÉRICAINS, 1960
- ECRITS DE GUERRE, 1939-1944, 1982 – Những ghi chép trong thời chiến – Wartime Writings